Đứa trẻ thừa hưởng màu mắt từ cha mẹ của chúng theo kiểu trội lặn. Đối với sự phân bố sắc tố ở lớp trước của mống mắt, hai cặp gen chịu trách nhiệm ở một mức độ lớn hơn, sự kết hợp đa dạng của các alen xác định màu mắt ở trẻ em.
Hướng dẫn
Bước 1
Đôi mắt có ba màu chính - nâu, xanh lam và xanh lục, sự di truyền của chúng quyết định hai cặp gen. Các sắc thái của những màu này được xác định bởi các đặc điểm cá nhân của sinh vật để phân phối sắc tố melanin trong tế bào sắc tố, nằm trong mống mắt. Các gen khác, chịu trách nhiệm về màu tóc và màu da, cũng ảnh hưởng đến màu mắt. Đối với những người tóc trắng có làn da trắng, mắt xanh là điển hình, và đại diện của chủng tộc Negroid có mắt nâu sẫm.
Bước 2
Gen, chỉ chịu trách nhiệm về màu mắt, nằm trên nhiễm sắc thể 15 và được gọi là HERC2, gen thứ hai, EYCL 1, nằm trên nhiễm sắc thể 19. Gen đầu tiên mang thông tin về màu hazel và xanh lam, gen thứ hai - về màu xanh lá cây và xanh lam.
Bước 3
Màu nâu trội ở alen HERC2, màu xanh lục ở alen EYCL 1 và mắt xanh di truyền tính trạng lặn ở hai gen. Trong di truyền học, người ta thường quy định tính trạng trội bằng chữ cái viết hoa trong bảng chữ cái Latinh, tính trạng lặn là chữ cái viết thường. Nếu gen chứa các chữ cái viết hoa và viết thường thì sinh vật đó dị hợp về tính trạng này và nó biểu hiện màu trội, và một đứa trẻ có thể di truyền tính trạng lặn ẩn. Tính trạng "bị triệt tiêu" sẽ xuất hiện ở trẻ khi một alen lặn tuyệt đối được di truyền từ bố và mẹ. Tức là, bố mẹ dị hợp tử mắt nâu có thể sinh con mắt xanh hoặc mắt xanh lục.
Bước 4
Sử dụng các chữ cái Latinh, màu mắt nâu do gen HERC2 xác định có thể được ký hiệu là AA hoặc Aa, bộ aa tương ứng với mắt xanh. Khi một đặc điểm được di truyền, một ký tự được truyền cho con từ mỗi cha mẹ. Như vậy, nếu bố đồng hợp tử mắt nâu, mẹ mắt xanh thì phép tính như sau: AA + aa = Aa, Aa, Aa, Aa, tức là. đứa trẻ chỉ có thể nhận được bộ Aa, được biểu hiện bởi tính trạng trội, tức là mắt sẽ có màu nâu. Nhưng nếu bố dị hợp tử có bộ Aa, mẹ mắt xanh thì công thức giống như sau: Aa + aa = Aa, Aa, aa, aa, i.e. Có 50% khả năng con của người mẹ có mắt xanh cũng sẽ có đôi mắt giống như vậy. Ở bố mẹ mắt xanh, công thức tính di truyền mắt có dạng: aa + aa = aa, aa, aa, aa, trong trường hợp này con chỉ thừa hưởng alen lặn aa, tức là màu mắt của anh ta sẽ là màu xanh lam.
Bước 5
Ở alen EYCL 1, tính trạng màu mắt được di truyền theo cách tương tự như ở gen HERC2, nhưng chỉ có chữ A biểu thị màu xanh lục. Tự nhiên sắp xếp sao cho tính trạng trội của mắt nâu ở gen HERC2 “thắng” tính trạng trội hiện có ở gen EYCL 1.
Bước 6
Do đó, một đứa trẻ luôn thừa hưởng màu mắt nâu nếu một trong hai bố mẹ có gen trội AA đồng hợp tử ở gen HERC2. Nếu bố hoặc mẹ có mắt nâu truyền gen lặn a cho con, tức là dấu hiệu mắt xanh, màu mắt quyết định sự có mặt của tính trạng trội màu xanh lục trong gen EYCL 1. Trong trường hợp bố, mẹ có mắt xanh không truyền tính trạng trội A nhưng lại “biểu hiện” alen lặn a, đứa trẻ được sinh ra với đôi mắt xanh.
Bước 7
Vì màu mắt được xác định bởi hai gen, sắc thái của nó có được từ sự hiện diện của các dấu hiệu không biểu hiện. Nếu đời con có bộ gen AA quy định alen HERC2 thì mắt sẽ có màu nâu sẫm. Sự có mặt của kiểu Aa mắt nâu ở gen HERC2 và tính trạng lặn của aa ở gen EYCL 1 làm cho mắt nâu nhạt. Tính trạng mắt xanh đồng hợp tử AA ở locus EYCL 1 quy định màu sắc bão hòa hơn tính trạng dị hợp tử Aa.