Trong các tài liệu cũ về in ấn, thuật ngữ "tờ in" được bắt gặp khá thường xuyên. Bây giờ nó gần như không sử dụng. Trong báo chí, sách báo và một số lĩnh vực khác, người ta đã chấp nhận việc đếm số lượng văn bản trong bảng hiệu từ lâu. Các nhà xuất bản phương Tây và một số nhà xuất bản của Nga thường sử dụng số lượng từ hoặc tờ giấy của tác giả truyền thống làm đơn vị đo lường. Tuy nhiên, đôi khi cần phải đếm số tờ in trong bất kỳ ấn phẩm nào.
Cần thiết
- - kích thước thực của tờ in;
- - số trang trong ấn phẩm;
- - kích thước của tờ in có điều kiện:
- - cái thước;
- - máy tính.
Hướng dẫn
Bước 1
Một tờ in thông thường được coi là một tờ có định dạng 70x90 cm. Các định dạng báo và tạp chí thông thường là bội số của một tờ in. Ví dụ: A2 là một nửa của đơn vị này, A3 là một phần tư và A4 là một phần tám. Những định dạng này vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Tuy nhiên, các trang sách và tạp chí có thể có kích thước khác. Ngoài ra, công nghệ in hiện đại cho phép đặt các lượng văn bản khác nhau trên cùng một khu vực, vì có thể sử dụng các kích thước khác nhau và các tùy chọn bố cục khác nhau.
Bước 2
Tính diện tích thực của trang giống như cách bạn làm với bất kỳ hình chữ nhật nào. Đo và nhân chiều dài và chiều rộng. Bạn có thể viết nó bằng công thức toán học thông thường S1 = a * b, trong đó S1 là diện tích của dải tồn tại trong thực tế và b là chiều dài và chiều rộng. Tương tự như vậy, hãy tính diện tích của tờ giấy đã in bằng cách nhân 70 cm với 90. Nghĩa là 6.300 cm2. Để thuận tiện, nó có thể được ký hiệu là S2.
Bước 3
Tìm hệ số chuyển đổi cho ấn bản này. Nó là tỷ lệ giữa diện tích của một trang sách hoặc dải báo thực tế với diện tích của một tờ in thông thường. Tìm nó bằng công thức k = S1 / S2. Nó đủ để làm tròn kết quả thu được chính xác đến hàng trăm.
Bước 4
Đếm số tờ đã in trong toàn bộ ấn phẩm. Đếm số trang sách hoặc trang báo. Nhân số kết quả với hệ số k. Phương pháp đếm này thuận tiện cho các ấn phẩm được đánh bằng phông chữ tiêu chuẩn trên trang tính có định dạng tiêu chuẩn.